Monday, August 3, 2009

Đánh bóng đá

Đá sau khi cưa gangsaw hay cưa dĩa có bề mặt phẳng nhưng không có độ bóng, do đó cần phải mài để đạt độ bóng cần thiết. Tuỳ theo nhu cầu bóng mà người ta sử dụng số lượng đầu đánh bóng cần thiết. Mỗi loại đầu đánh bóng có độ mịn khác nhau. Độ mịn càng cao thì đánh càng bóng. Tuy nhiên để đánh được đầu bóng có độ mịn cao thì phải đánh các đầu bóng có đô mịn thấp trước. Vd. Muốn đánh được đầu siêu bóng 1600 trở lên thì phải đánh đầu 1200 trước, trước đó là 800, là 400, rồi 240, rồi 160, rồi 120, rồi 80.

Trên đây là máy đánh bóng 3 đầu, ngoài ra người ta có thể dùng máy đánh thủ công 1 đầu hoặc máy đánh tự động 13-18 đầu.

Sunday, August 2, 2009

Cưa đá bằng máy cưa dĩa

Trên đây là một máy cưa dĩa chùm của Trung Quốc. Cưa dĩa lắp những lưỡi cưa tròn có gắn segment pha kim cương để có thể cắt đá, thích hợp với khổ đá nhỏ hơn cưa gangsaw. Khổ đá cưa thông dụng là 60cm x 2m. Máy cũng có thể cưa các khổ đá chiều ngang 90 cm hay 1,2 m nhưng không thông dụng. Do tính tiện dụng, đầu tư thấp, chi phí cưa thấp nên cưa dĩa ngày càng được ưa chuộng và sử dụng nhiều trong các nhà máy chế biến đá.

Saturday, August 1, 2009

Cưa đá granite bằng máy Gangsaw

Đây là một máy cưa Gangsaw dùng cưa đá granite dạng nguyên khối lớn (đá khối có kích thước khoảng 1,6m x 2m x 3m) thành những đá tấm (đá slab). Đá tấm khổ lớn có kích thước trung bình khoảng 1,6m x 2,8m dầy 2cm dùng làm đá ốp lát. Những máy gangsaw khổ lớn có thể cưa được đá khối có kích thước lớn thành đá tấm có diện tích 2m x 3,5 m. Tuy nhiên khối đá phải đủ lớn có thể tích khoảng 14m3, nặng ~ 40 tấn. Những điều kiện về mỏ, khả năng khai thác, khả năng vận chuyển, đường sá của Việt Nam rất khó để đưa những khối đá như vậy về các nhà máy.

Gangsaw dùng nhiều lưỡi cưa bằng thép lắp song song với nhau để cưa đá khối. Dưới tác dụng bào mòn của lưỡi cưa và dung dịch hạt thép, vôi, nước mỗi giờ cưa được khoảng 2,5 - 3 cm (một số gangsaw cải tiến mới hiện nay có thể cưa được 5cm/giờ). Như vậy, để cưa khối đá có chiều cao 1,7m cần thời gian khoảng 3 ngày.

Friday, April 10, 2009

Chế biến bề mặt đá - Các loại hình

Đá tẩy tay
Khả năng chế biến bề mặt đá cũng là yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đá, nhìn chung các loại đá khác nhau có thể thích hợp với các phương pháp xử lý bề mặt khác nhau. Tùy theo mục đích sử dụng có thể có những bề mặt đá như sau:

1. Mặt đá tự nhiên: Là bề mặt tự nhiên của một số loại đá khi khai thác ra từ mỏ thường áp dụng cho porphyry, quartzite, đá slate và một số loại đá vôi.

2. Mặt đá chế biến: Là các loại bề mặt được hình thành qua quá trình xử lý bằng các công cụ khác nhau. Các bề mặt chế biến thông thường gồm:

- Mặt đá tẩy: Được hình thành qua quá trình tách đá bằng tay hoặc bằng máy. Hiện nay thường được sử dụng để sản xuất đá cubic lát đường, san vườn với các loại đá granite, basalt, đá marble (dùng trang trí).

- Mặt cưa gangsaw: Là bề mặt tạo nên do quá trình cưa bằng máy gangsaw. Bề mặt này có thể khác nhau tùy theo kích cỡ hạt thép sử dụng và có thể có nhũng lỗi xảy ra trong quá trình cưa như lõm, lẹm, giật cấp. Loại hình bề mặt này ít khi được sử dụng trừ những trường hợp đặc biệt do kiến trúc sư chỉ định.

- Mặt cưa dĩa: Là bề mặt tạo nên do các segment cưa đĩa tạo thành qua quá trình cưa. Loại bề mặt này có thể sử dụng cho các loại đá lát đường, hè phố…

- Mặt đá khò lửa: Là bề mặt tạo thành do lửa ở nhiệt độ cao (2500 độ) tác dụng làm bóc lớp đá bề mặt. Một số loại đá có thể thay đổi màu sắc dưới tác dụng của nhiệt độ (đá vàng Bình Định có thể chuyển sang màu nâu đỏ). Đá khò thường được dùng cho các công trình ngoài trời và những vị trí chống trơn trượt.

- Mặt đá mài: Thường sử dụng 3 phương pháp: bào đá, mài mờ và mài bóng.

+ Bào đá được áp dụng cho các yêu cầu có độ chính xác cao về độ dày của đá, các sản phẩm thường được dùng là đá cắt quy cách sẵn hoặc đá dùng kết hợp với gỗ làm mặt bàn, ghế…

+ Mài mờ và mài bóng: Phương pháp xử lý giống nhau là dùng máy đánh bóng lắp đặt các đầu mài phù hợp để tạo ra sản phẩm theo yêu cầu. Có các loại máy đánh bóng tay, máy đánh bóng cầu (ít sử dụng) và máy đánh bóng tự động.

- Mặt đá xử lý hóa chất: Một số loại đá phải sử dụng hóa chất để tăng cường độ bóng bề mặt, tăng tính thẩm mỹ hoặc gia cố kết cầu đá. Các quy trình thông dụng là phủ keo trước khi đánh bóng bề mặt, xử lý keo sau đánh bóng, phủ keo lưới mặt sau đá marble, vá trám đá marble.

- Mặt đá giả cổ: Đá được mài mòn bằng máy chuyên dụng sử dụng những chíp mài thích hợp. Thường được áp dụng cho đá marble.

- Mặt đá tạo thành bằng công nghệ mới như công nghệ máy tia nước (water jet), tia laser .

Friday, November 7, 2008

Một số hình ảnh hóa thạch ammonite






Hóa Thạch (theo wikipedia)

Hóa thạch là những di tích và di thể (xác) của sinh vật được bảo tồn trong đá, là đối tượng nghiên cứu chủ yếu của của ngành sinh vật học... Trải qua một thời gian dài tồn tại của Trái đất, đã có rất nhiều sinh vật từng sinh sống. Những sinh vật này sau khi chết, xác hoặc những dấu vết của các họat động sống là những chứng cứ được lưu giữ lại, theo sau một thời gian xác của chúng bị phân hủy (thối rữa), chỉ những bộ phần cứng như vỏ xương hoặc cành cây... được bao bọc bởi các trầm tích vật và trải qua quá trình hóa thạch để trở thành đá, nhưng vẫn giữ lại được những hình thái kết cấu (thậm chí một vài chi tiết nhỏ cấu tạo bên trong) đồng thời những dấu vết hoạt động của những sinh vật thời kỳ đó cũng được bảo lưu như vậy.

Nguồn gốc tên gọi "hóa thạch" trong tiếng Anh, từ "fossil" bắt nguồn từ latinh "fossilis" với nghĩa là "đào lên".

Lịch sử nghiên cứu hóa thạch

Trong những ghi chép còn để lại từ xa xưa, có một nhóm học giả người Hy Lạp đã rất ngạc nhiên trước những di tích tồn tại của cá, vỏ sò và một vài dạng sinh vật biển được tìm thấy ở trên núi và sa mạc. Năm 450 trước công nguyên Herodotus đã đề cập tới sa mạc Ai Cập và cũng khẳng định rằng ở đó trước đây một phần bị bao phủ bởi biển Địa Trung Hải, năm 400 trước công nguyên Aristoteles tuyên bố: "hóa thạch là do vật chất hữu cơ tạo thành, nhưng hóa thạch bị ép vào trong tầng nham thạch là do một tác dụng làm mềm trong vỏ trái đất gây ra". Một học trò của ông là Theophrastus năm 350 trước công nguyên cũng đã đưa ra được một vài hóa thạch của các dạng sinh vật, nhưng lại cho rằng hóa thạch do trứng và hạt của cây trong lớp nham phát triển mà thành ....

0.Strabo (63-20 trước công nguyên) cũng chú ý đến những hóa thạch của các sinh vật biển tìm thấy dưới lớp đất dưới đáy.

0.Trong gia đọan đen tối của thời kỳ trung cổ, con người có nhiều cách lý giải khác nhau về hóa thạch. Có người cho rằng đó là hiện tượng kỳ bí của thiên nhiên hoặc đó là sản phẩm của ma quỷ tạo ra để mê hoặc con người. Những lời đồn đại mê tín và sự cấm đoán của các tôn giáo đã cản trở việc nghiên cứu hóa thạch vài trăm năm. Mãi đến đầu thế kỷ 15 là thời kỳ khởi nguồn cho việc phổ biến và tiếp thu những kiến thức về hóa thạch, con người đã hiểu rằng hóa thạch là tàn tích của những sinh vật trước kia, nhưng vẫn cho rằng đó là những dấu vết của cuộc đại hồng thủy được ghi trong thánh kinh. Các nhà khoa học và các nhà thần học đã tranh cãi nhau suốt 300 năm sau đó. Đến thời kỳ phục hưng có một vài nhà khoa học đầu tiên mà tiêu biểu là Leonardo da Vinci (1452-1519) đã đề cập tới hóa thạch và đã kiên quyết phủ nhận việc liên quan của hóa thạch với đại hồng thủy, và cũng đã phủ nhận ý kiến cho rằng hóa thạch chỉ xuất hiện ở trên núi cao, họ cũng tin rằng hóa thạch là chứng cứ của những sinh vật cổ đại và cũng cho rằng

0.Biển Địa Trung Hải trước đây đã bao phủ toàn bộ nước Ý trước đây khi đáy biển lên xuống do các họat động địa chất hình thành lên bán đảo Italy.

0.Xác của sinh vật cổ đại vẫn được lưu giữ lại trong bề mặt đáy biển .

Cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19 đã hình thành lên được một cơ sở vững chắc cho việc nghiên cứu hóa thạch và tạo lên một môn khoa học. Từ đó đến nay hóa thạch thường phát hiện chủ yếu tại tầng nham trầm tích ngoài biển. Khi các trầm tích vật như đá vôi, vụn cát, vỏ xương của động vật bị đè nén rồi kết dính với nhau tạo thành nham, và tạo lên một phần nham trầm tích mặt biển (seafacies). Rất hiếm gặp hóa thạch xuất hiện trong các nham núi lửa và nham biến chất (metamorphic rock) bởi vì:

0.Nham núi lửa ở trạng thái trước đó là dạng nóng chảy và không tồn tại sự sống.

0.Còn Nham biến chất đã trải qua những biến đổi rất lớn mà thành khiến cho hình dạng ban đầu của hóa thạch trong đó hầu như bị phá hủy và không còn lại nguyên vẹn. Tuy vậy nếu như may mắn còn được giữ lại trong lớp nham trầm tích một vài hóa thạch thì đó chỉ là một bộ phận rất nhỏ động thực vật thuộc thời kỳ đó mà thôi.

Bằng việc kiểm chứng những điều kiện khắc nghiệt trong quá trình hình thành lên hóa thạch cũng dễ hiểu vì sao những vết tích còn lưu lại trong lớp nham trầm tích (sedimentary rock) cũng chỉ là một bộ phận rất nhỏ còn sót lại từ những sinh vật thuộc thời kỳ trước .

 

Điều kiện hình thành hóa thạch

Mặc dù một sinh vật có thể hình thành lên hóa thạch hay không đều được quyết định bởi rất nhiều những nhân tố, nhưng có 3 nhân tố cơ bản nhất:

0.Sinh vật nhất thiết phải có những bộ phận cứng khó phân hủy như xương, vỏ răng và gỗ.... sau đó ở vào một điều kiện vô cùng thuận lợi cho dù là những sinh vật mềm yếu như côn trùng hoặc sứa cũng có thể tạo hình thành lên hóa thạch.

0.Sinh vật khi chết phải được bảo vệ để tránh khỏi những tác động phá hủy, nếu như các phần cơ thể của nó bị nghiền nát hoặc bị ăn mòn thì khả năng tạo thành hóa thạch của sinh vật không thể thực hiện được.

Sinh vật cần thiết phải được chôn xuống và bao phủ bởi những vật chất có thể giúp nó chống lại những điều kiện khắc nghiệt có thể khiến nó bị phân rã. Xác của những sinh vật ở biển thường rất dễ hình thành hóa thạch. Bởi vì xác sinh vật biển chết sau khi lắng xuống đáy biển bị cát phủ lấp, cát trong những niên đại địa chất sau đó sẽ biến thành đá vôi (limestone) hoặc diệp thạch (schist), những trầm tích vật (sediment) nhỏ không dễ làm tổn hại đến xác của sinh vật.


Đá trầm tích và những sò ốc hoá thạch

Thank Mr Le Quang for your picture 
Những con ốc hoá thạch